Thứ Hai, 5 tháng 5, 2008

Suýt đói trên núi gạo

Lâm Võ Hoàng

Cơn khủng hoảng “bão táp trong tách trà” của giá gạo ăn nội địa đã đẩy nước ta vào tình cảnh một xứ hoang tưởng, như trong phim xưa : “Alice trong xứ huyền ảo”, nơi có đồng hồ chạy ngược thời gian. Cách nay một số báo, trên CGvDT, có tiếng kêu trời vì lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long không ai chịu mua giùm, nhứt là các nhà xuất khẩu chờ giá lúa xuống tới đáy, trong khi giá gạo thế giới tăng vù vù ở con số không thể tưởng tượng. Bây giờ tới phiên nước ta bị ám ảnh bởi cảnh tượng dân Mỹ nối đuôi mua gạo với giá tăng vọt không ngớt, bèn cám phận mình, tránh sao cho khỏi.

Rồi khi nghe tiếng đồn thổi từ lối xóm, liền rùng rùng đua nhau mua gạo trữ. Chỉ chờ có thế, như có ai nhận nút, các bên bán rùng rùng găm gạo hoặc bán theo giá tăng từng giờ, hoặc nghỉ bán, nhà máy xay hoạt động cầm chừng, các đầu mối cung cấp các địa điểm bán lẻ thông báo hạn chế giao hàng. Các siêu thị xưa nay được tiếng giàu vốn, giàu hàng, bán nhỏ giọt mỗi người 10kg và cũng bắt chước găm dự trữ, có nơi quên mình là “anh hùng” (!) cũng hành động như ai nấy, tức là cũng găm dự trữ.

Như vậy nguồn gốc nguyên nhân khủng hoảng giá gạo vừa qua không chỉ là lời đồn thổi, dù gì đi nữa cũng không đủ sức mạnh kéo mọi người ra khỏi nhà chầu chực mua được gạo bất cứ giá nào. Có nhà mua trữ cho tới 300kg. Hơn thế nữa, giá càng tăng cao, càng kích thích người tiêu dùng mở rộng hồ bao, trái với qui luật kinh tế thông thường. Vì cái gì đều có thể nhịn được, trừ cơm. Cho nên từ ngàn xưa có câu vè : “Nhứt sĩ, nhì nông, hết gạo chạy rông, nhứt nông nhì sĩ” và “củi quế gạo châu” tức là giá gạo có thể tăng bằng giá trân châu, mà mua được cũng thấy có phúc.

Vì vậy, chớ nên mắc công tìm kiếm ai là tác giả những lời đồn thổi. Hàng xóm chỏ miệng qua rào hỏi thăm “đã mua gạo chưa?” cũng là lời đồn thổi khiến cho ai chưa mua được (vì thiếu tiền, thiếu thì giờ chen lấn, chầu chực…) đều rộn rã trong lòng, như thuở nhỏ, nghe tiếng trống chầu giục giã của đám hát bội cung đình.

Thế thì trong nhiều nguyên nhân, nguyên nhân nào là chủ yếu ? Đó là thiếu vắng lời trấn an kịp thời của những người trách nhiệm.

Không ai lên tiếng kịp thời rằng “chúng ta đang ngồi trên núi gạo, gần một triệu rưỡi tấn “qui ra gạo”, chớ có ít đâu”. Nói như vậy, ắt không khỏi có người bẻ lại : “Gạo đó để dành cho xuất khẩu đã hợp đồng rồi, ai đụng tới rủi có gì, ráng chịu trách nhiệm !” Tuy nhiên, như mọi việc, chuyện hòng tính đem gạo dự trữ của người ta ra dập tắt “bão giá gạo”, không đơn giản. Còn vấn đề giá cả nữa chứ ! Giá cả quốc tế vọt lên tới nóc nhà, bắt tôi phải bán ra với giá vốn hồi mua vào, nghe sao thông ? Nhứt là đối với “người trong nhà” với nhau ! Thành ra chỉ hô hào, trấn an, hăm he, chớ không có hành động cụ thể, như bên Mỹ cháy rừng, người ta từ trên máy bay, trút nước ào xuống đất cả chục, cả trăm mét khối mỗi lần.

Ngoài ra còn có bọn chuyên rình thời cơ, vung tiền “kinh doanh gạo”, ngoài chức năng, chuyên nghiệp, chỉ quậy phá thị trường, từ chứng khoán, bất động sản, đến hàng hóa, hốt bạc rồi rút lui, để lại trên chiến trường đầy xác đồng bào nghèo. Thật khủng khiếp khi giá gạo (cần ăn tối thiểu ngày hai bữa) tăng vọt 200, thậm chí 300% trong vòng vài hôm. Trong khi phản ứng đối phó của ta quả thật chậm chạp. Trong khi trong chiến tranh ta tài tình ngoài sức tưởng tượng : bất cứ chiến lược chiến dịch nào của Mỹ, ta đều phá vỡ tan nát. Không phải chỉ nhờ nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn, mà chủ yếu là nhờ bao ngàn ngày chống ngoại xâm là bấy nhiêu ngàn ngày cảnh giác, thức tỉnh và sẵn sàng.

Giờ đây thái bình thịnh trị, ta quên rằng có cái chết ngọt ngào, không tên, hoàn toàn khác với những gì đã biết và trải qua. Bây giờ quốc doanh chỉ lo cho doanh số, lợi nhuận của mình, hơn bất cứ tên tư bản gớm ghiếc nào của năm xưa. Họ nắm mọi phương tiện, nhưng khi lâm trận họ lo giữ kho của họ, bỏ mặc chiến trường cho lãnh đạo và quần chúng xoay sở. Có gì, họ dư phương tiện để chạy tội. Kinh nghiệm “bão giá gạo” vừa qua cho ta thấy bài học của An Dương Vương vẫn còn đó. May là hồng phúc đất nước ta chưa cạn kiệt, cho nên bài học chỉ “nhá lên” để nhắc nhở, chớ chưa đi tới, còn khuya mới tới, kết cục của bố con Mỵ Châu.

(Báo Công Giáo Và Dân Tộc số 1655, ngày 2/5 - 8/8/2008)

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2008

Vị đắng dâng trào

Lâm Võ Hoàng

Đọc bài “Bớt xuất khẩu để kềm giá gạo” (Tuổi Trẻ 4.4) ghi lại ý kiến của ông Chủ tịch Hiệp hội lương thực Việt Nam, người viết không thể không cảm thấy một vị đắng dâng trào. Ông nói trơn tru như một “em xi” (người dẫn chương trình), chuyên nghiệp. Ai nghe ông, tin ông ắt sẽ thấy khỏe khoắn như ngồi trong “tứ phương vô sự lâu”. Nào là “Tôi khẳng định giá gạo xuất khẩu sẽ ở mức cao kéo dài trong nhiều năm tới, càng chậm xuất khẩu gạo, càng có lợi về giá (?)… giá thành sản xuất lúa có tăng nhưng hiện bình quân chỉ khoảng 2.000 – 2.200 đồng/kg, trong khi giá bán lúa cao hơn nhiều lên tới 4.200 – 4.300 đồng/kg, như vậy người làm lúa được lãi gấp đôi rồi” (!).

Thế nhưng, ngay dưới bài của ông, là mẩu tin “giá lúa giảm nhẹ” của Ngọc Diện, được in trên nền màu hồng : “Những ngày qua giá lúa ở khu vực ĐBSCL có dấu hiệu chững lại, có nơi giảm 200 – 300 đồng/kg so với tuần trước. Cuối tháng trước giá lúa dài thường dao động từ 4.300 – 4.500 đồng/kg, thì chiều 3.4 ở An Giang, Cần Thơ, chỉ còn 4.200 đồng/kg… (thậm chí) tại Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, thương lái mua lúa dài thường tại sân phơi của nông dân chỉ với giá 4.000 – 4.100 đồng/kg. Tình trạng tranh mua cũng không như trước, trong khi người dân rất cần bán lúa để tái đầu tư cho mùa”.

Về ảnh hưởng của việc tăng giá vật tư nông nghiệp, Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, gióng lên một tiếng chuông hoàn toàn khác với tiếng chuông “nào ta hãy mừng vui!” của ông Chủ tịch tác giả của “người làm lúa được lãi gấp đôi rồi”. Thật vậy một đằng nói chung chung, không kèm theo ngày tháng của giá cả trong khi giá quốc tế, giá nội địa nhảy choi choi hàng ngày, thậm chí hằng giờ, đằng khác nói có chừng mực, có ghi chú ngày tháng của giá, có nêu rõ địa chỉ và loại lúa mua bán, chớ không phải lúa nào như lúa nào. Rõ ràng người ngồi trong bàn giấy thấy, biết và nói khác người tại chỗ hay ở trận tiền. Do vậy mới có chủ trương “bớt xuất khẩu để kềm giá gạo”, chủ trương này có lợi, gây hại cho ai?

Bớt xuất khẩu gạo, để làm gì?

Theo ông Chủ tịch, từ đầu năm tới giờ, ta chỉ giao được 800.000 tấn gạo trên 1.800.000 tấn đã ký và trong hai tháng tới phải giao một triệu tấn đã ký còn lại. Trong tình hình “lúa đông xuân đâu còn nhiều mà ký”, liệu các nhà xuất khẩu 1.000.000 tấn gạo còn nợ hợp đồng, có đủ tồn kho để giao hàng hay chưa? Hỏi như vậy không có nghĩa làm “gái góa ngày đêm lo việc thành đổ” (mặc dù) đã có vua xây”. Vì số lượng gạo phải giao hàng, nếu chưa đủ tồn kho, ắt phải trông cậy vào vụ mùa hè thu phía Nam vốn không như vụ đông xuân, thường gặp trắc trở do thời tiết, cũng như lũ chụp chẳng hạn, và vụ mùa đông xuân phía Bắc còn đang trên đà khôi phục toàn bộ diện tích sau đợt rét đậm vừa qua đã làm lúa chết hết. Nếu thời may mà “1 triệu tấn nữa phải giao trong hai tháng tới” đủ tồn kho và các doanh nghiệp chỉ cần “tập trung giao hàng” mà thôi thì vụ mùa hè thu trong Nam có thể lo cho phần chỉ tiêu tối thiểu còn lại của xuất khẩu gạo 2008, tức là 3,5 – 1,8 = 1,7 triệu tấn không khó tìm hợp đồng ký kết, vì thiếu gạo toàn cầu.

Như vậy ẩn số là số tồn kho thực để giải quyết số 1 triệu tấn gạo đã hợp đồng. Nếu khác với ước mong trên đây, tức là do tồn kho chưa đủ, mà các doanh nghiệp vẫn không ra tay mua vào cho đủ số, thì vụ mùa hè thu, vốn thất thế hơn đông xuân, khó có thể cõng trên lưng gầy hai mạng được và từ đó những bất cập khó lường cho xuất khẩu, thậm chí tiêu dùng gạo trong nước, như ở Thái Lan chẳng hạn. Do đó, Hiệp hội lương thực Việt Nam phải công khai số tồn kho thực tế dành cho một triệu tấn phải giao trong hai tháng tới. Bằng không dư luận có thể nghĩ rằng Hiệp hội đang chơi ván bài nào đó, như Khổng Minh tọa lầu năm xưa, bày ra chuyện bớt xuất khẩu để chờ sụt giá lúa nhiều hơn nữa mới ra tay mua vào để trả nợ. Vì một triệu tấn đâu có nhỏ. Cả hơn ba tháng từ đầu năm mà mới chỉ giao được 800.000 tấn, làm sao trong điều kiện “lúa đông xuân đâu còn nhiều”, vụ mùa hè thu “mới gieo sạ được khoảng 100.000ha”, giao đủ một triệu tấn trong hai tháng?

Mặt khác, người ta có thể nghĩ việc chưa vội mua vào không chỉ chờ lúa sụt giá thêm nữa, mà còn lý do khác để chậm mua là đỡ tiền lời ngân hàng, đỡ tiền kho vựa (nông dân giữ giùm), đỡ chim chuột hao hớt… Tới chừng “xả cảng” lúa gạo sẽ chạy vào tay Hiệp hội, chớ có đi đâu mất mà sợ?

Kềm giá gạo để làm gì?

Nước ta xuất khẩu gạo hạng nhì thế giới, nhưng nông dân ta vẫn nghèo. Vì ai cũng biết nông dân nếu không làm ruộng để tạo ra lúa gạo nuôi sống xã hội thì không biết làm gì khác. Chính vì biết như vậy mà mọi người tha hồ khai thác thất thế đó. Gánh nặng tiền lãi vay vốn ngân hàng và tý nhn bên ngoài, vật tư nông nghiệp không ngớt tăng giá, đã thế, trong môi trường u ám của xã hội nông thôn, với đủ thứ kềm kẹp và hàng chục khoản đóng góp ngoài nghĩa vụ thuế má... nông dân ta còn phải chờ bán được lúa mới có thể đầu tư cho mùa vụ mới. Đối với nông dân có một luật thép là giá lúa thấp cao gì cũng phải bán, vì nhà không đủ chỗ ở, có đâu chỗ chứa lúa chờ thời? Mặc dù vậy, khi gạo ra đô thị, do giá vượt quá sức mua của người dân ở đó, thì tiếng oán lại đổ xuống nông dân “ăn gạo không mất tiền”, cho nên mới có chánh sách kềm giá gạo.

Cục dự trữ quốc gia ở đâu rồi?

Trung Quốc có dân số đông nhất thế giới, gấp 15 lần Việt Nam, thế mà họ có Cục dự trữ quốc gia về gạo, hữu hiệu đến độ còn biết đưa gạo mục, mốc, hư sang bán ở các nước khác để thu hồi vốn. Không nghe nói dân họ bị đói kém, cho dù có đói kém thật. Vả chăng nếu họ thực sự đói kém, thì tại sao họ lại có gạo mốc thừa để đưa đi bán? Còn Cục dự trữ an toàn quốc gia của ta được sinh ra để làm gì, đã làm gì, mà Chánh phủ, thậm chí ông Chủ tịch Hiệp hội lương thực, phải lo “bớt xuất khẩu để kềm giá gạo” ? khiến cho nông dân bán không được lúa, làm lúa rớt giá trong khi Nhà nước thương dân cứ lo dân thiếu gạo ăn, đành phải bao cấp và phải giải quyết chuyện no đói của dân một cách tréo ngoe.

Tóm lại, như Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, cho rằng: “Hiện nay một số nơi giá lúa bắt đầu giảm, nhưng giá vật tư nông nghiệp lại tăng quá cao. Lúc trước, khi thấy giá lúa tăng, nông dân rất vui vì cân đối được giá vật tư nông nghiệp. Nhưng bây giờ bà con lo lắng trước vụ hè thu mới. Nhưng vài ngày qua, rất ít người mua lúa và giá lúa lại giảm” (không biết lấy gì đầu tư cho vụ hè thu).

Rõ ràng đây là một vị đắng dâng trào của một đứa con ĐBSCL, thuở bé bãi trường theo mẹ lên ruộng sống trong môi trường lam lũ nhà nông. Bây giờ già rồi mà vẫn phải kêu trời. Không mấy thuở trời cho giá gạo thế giới tăng cao để nông dân ta vừa có thể âu ca bán lúa, phục vụ xuất khẩu gạo, vừa cân đối tăng giá không ngừng của vật tư nông nghiệp, vừa đóng góp tăng cường, bình ổn số lượng gạo hàng hóa trên thế giới, gián tiếp làm giảm áp lực giá gạo tăng vọt ở các nước nghèo nhập khẩu gạo vì không biết trồng lúa. Thế nhưng do sự tắc trách của các bộ phận liên quan, chỉ biết ký giấy, chớ không nắm tình hình giao dịch sản lượng lúa gạo, cứ phú thác mọi sự cho Hiệp hội Lương thực Việt Nam, khiến cho nông dân bơ vơ như gà mất mẹ, đành phải cam chịu, không những mất trớt hướt phần lợi lộc trời cho, mà còn lo âu, ngày đêm lậy trời cho sớm bán hết lúa để có tiền trả nợ và mua lúa giống, phân bón v.v... đầu từ gấp cho vụ mùa hè thu sắp đến. “Thật là một thiệt thòi lớn đối với nhà nông” (T.S Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL).

(Báo Công Giáo Và Dân Tộc số 1653 18/04/2008)



Thứ Năm, 10 tháng 1, 2008

Những điều trông thấy

LÂM VÕ HOÀNG

Đây là những điều đã qua khá lâu và những phản ứng cũng không phải ít. Tuy nhiên vẫn còn có chỗ để bàn thêm rốt ráo, thậm chí chạm vào những động cơ căn bản, xuất phát điểm của những điều không khỏi “đau đớn lòng”, khi hướng về tương lai mà “những điều trông thấy” ấy có thể dẫn dắt.

Đó là đóng dấu còn nợ trên văn bằng tốt nghiệp đại học của những sinh viên ưu tú, chỉ vì mắc tội nghèo phải xin vay tiền từ lòng tốt của nhà nước và tội cô thân thất thế, nên chưa sớm kiếm được việc làm tốt lương cao, để trong một năm, trả nợ vay ăn học của 4 hoặc 5 năm.

Đó là quyết định cấm xe ba gác, xích lô, hàng rong… mà tuyệt nhiên chưa có đối sách đền bù, hỗ trợ công ăn việc làm mới.

Đó là phổ cập chế độ lãnh lương qua máy trả tiền ATM, không phân biệt lương hậu hĩnh hay còm cõi.


Đóng dấu còn nợ trên văn bằng đại học

Nước ta tuy nhỏ bé, nhưng từ ngàn xưa nhờ trọng học, có tầng lớp sĩ phu tổ chức xây dựng, điều hành đất nước với đầy đủ rường rột vững vàng, dựa trên nền tảng đạo đức khôn ngoan : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, tới muôn ngàn đời sau vẫn có giá trị tu thân tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, kể cả sau khi tiếp thụ văn hóa, khoa học kỹ thuật duy lý của Tây phương.

Nhờ trọng học và có học, dân ta sớm vĩnh viễn thoát khỏi cảnh ăn lông ở lỗ, có đạo đức xã hội và bản thân, nên sớm tạo được hồn dân tộc, yêu nước, thương nòi, khao khát độc lập tự do, giữ thể thống trong mọi hoàn cảnh, biết cân bằng tương quan lực lượng, tuy ở phía dưới nước lớn mà không hề bị đồng hóa và vẫn giữ được cá tính, bản sắc dân tộc cho đến ngày nay.

Thế đấy, nhưng tại sao những “cử nhân” trước đây được cờ quạt, võng lọng đưa về làng “ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” bái tổ vinh qui rỡ ràng, mà nay, chỉ vì chưa có điều kiện trả nợ vay đi học (có thấm vào đâu so với tiền ném qua cửa sổ của lũ con cái thất học, hư hỏng của bọn tham quan), những cử nhân, kỹ sư, thậm chí bác sĩ phải đau đớn nhận tấm bằng có đóng dấu còn nợ. Văn hóa đâu? Văn minh đâu? Học thức đâu?

Dù cho “người phàm mắt thịt” tới đâu, cũng phải thấy họ đã đáp ứng xuất sắc yêu cầu cơ bản đầu tiên của món nợ vay là từ một học sinh non nớt (dù sao cũng là tú tài !) họ đã trở thành một trí thức chuyên viên, một sĩ phu trẻ của đất nước, thậm chí thế giới (không thể phủ định giá trị văn bằng đại học của họ) đủ sức đóng góp hữu hiệu cho đất nước, dân tộc, nhân loại. Đồng tiền tuy quý nhưng chưa to bằng bánh xe, có phải như thế không ?

Vậy thì, động cơ nào thúc đẩy đến chỗ đành đoạn chủ trương đóng dấu “còn nợ” trên văn bằng quý báu của người ta và nhằm mục đích nào ? Phải chăng vì bất lực buộc người ta phải trả nợ, bất lực do non kém kinh nghiệm, bản lĩnh hành chánh pháp lý, người ta đành viện đến việc đóng dấu vào văn bằng, khiến cả nước ngỡ ngàng.

Cấm xe ba gác và hàng rong

Báo chí đã phản ánh khá đầy đủ nỗi thống khổ tuyệt vọng của tầng lớp phải cật lực lao động, hơn cả những người mang danh lao động, để kiếm miếng sống cho gia đình và góp phần gầy dựng con cái thành người có học, hữu ích cho đất nước mai sau. Tuy đã được nhà nước chiếu cố cho lùi hạn định đến 6 tháng nữa, nhưng vấn đề vẫn sẽ y nguyên. Vì chắc gì trong 6 tháng đó, có đầy đủ chính sách đền bù, hỗ trợ, giúp đỡ những người sẽ thất nghiệp vì bị bít đường sinh nhai mà chưa thấy bất cứ lối thoát nào, nói chi lối thoát khả thi.

Hầu như bên trên, như người “cõi trên”, chưa xác định được trọng lượng kinh tế và dịch vụ xã hội của họ, nên coi vấn đề cấm như không. Theo báo chí, những xe ba gác linh hoạt chui vào các hẻm sâu đã giải quyết được 70% rác của thành phố Hồ Chí Minh. Cấm họ rồi xử lý rác như thế nào đây ? Hay là chỉ biết phạt. Xin nhớ, việc giải quyết nón bảo hiểm nằm trong tầm tay người đi xe máy. Còn rác chỉ có thể do nhà nước giải quyết mà thôi.

Còn hàng rong là ân nhân cứu khổ cho những người thu nhập thấp là chủ yếu. Người viết mỗi ngày ngồi đọc báo trước cửa nhà, với 10.000 đồng có thể ăn năm món quà sáng no tới trưa, thường khi ăn 2000đ xôi khúc là đủ bữa điểm tâm. Không kể “chợ lưu động” của mấy chị đi xe đạp có đủ cá, thịt, rau, gia vị. Không thể chối cãi họ là nét văn hóa đặc thù của đất nước mà cho tới cả Tây cũng không chê. Hơn thế nữa họ là nguồn gốc duy trì truyền thống ngon lành của ẩm thực bình dân vốn là khuôn mặt thật của đất nước. Họ mà biến đi, thì bộ mặt đô thị sẽ biến dạng liền.

Thế tại sao lại cấm họ ? Có khả năng là ta hay sính bên Tây, bên Mỹ, hay trên thế giới, mà quên rằng bên họ cũng có bình dân sản xuất tiêu thụ hàng bình dân, với thu nhập bình dân. Ở đâu cũng có kẻ giàu, người nghèo. Bên ta có những người cực giàu, xuất thân, hoặc có ảnh hưởng đến giới hành chánh, nên tưởng ai cũng như họ, ăn xài đắt tiền tối đa, đôi giày, cái bóp đầm trên 20 triệu là bình thường, ra đường là xe hơi, tài xế, màn che sáo phủ, muốn cho môi trường sống của họ phải giống y như các nước kia và đâu đâu cũng phải là Phú Mỹ Hưng. Xe ba gác, hàng rong chỉ làm bẩn bộ mặt thành phố.

Trong khi đó lại không thấy rằng chính lối công tác quan liêu tắc trách làm cho đường phố đầy ổ voi, cống không nắp, nước ngập lôi rác dưới cống trôi lềnh bềnh… mới làm xấu, bẩn bộ mặt thành phố. Trong khi một chị hàng rong nở nụ cười mời mọc du khách là đủ làm cho người này thấy đất nước ta đẹp và nhớ hoài. Ta phải tự sửa mình, trước khi qui tội cho đám nhà nghèo.

Lãnh lương qua ATM

Cũng vì sính máy móc ngoại, nên ta chủ trương lãnh lương qua ATM, không dè số ATM không thể đủ để phục vụ cho số người bắt buộc phải sử dụng nó. Ngoài ra nó cũng trục trặc hoài, thậm chí nuốt thẻ của người ta, ghi trả, nhưng không đưa tiền ra. Khiếu nại thì giải thích vòng vo, bảo chờ giải quyết máy…

Cũng vì quá sính, nên quên rằng đa số người bắt buộc phải lãnh lương qua ATM, sẽ rút hết một lần số lương còm không đủ sống của mình. Họ sẽ mất nhiều thì giờ chầu chực tới phiên, hoặc chưa quen và rành máy móc, không thể không gặp sự cố mà họ luôn là người có lỗi. Hơn nữa tới được cái máy ATM, phải kiếm chỗ để xe, mất tiền gởi sẽ làm cho họ tiếc cái thiên đàng lãnh lương tại chỗ làm bằng tiền mặt, đem về liền cho bà xã hoan hô.

Tóm lại tiến bộ không ai không muốn. Nhưng muốn cái tốt nhất mà mình hoàn toàn không có khả năng dù trong tương lai dài, như sạch bằng Singapore quả là không lượng sức mình và làm khổ cho dân mình. Ta cứ coi các nước láng giềng tiến bộ hơn ta, như Thái Lan chẳng hạn, họ cấm gì, còn cho phép gì, ta cứ bắt chước y như họ là không lầm đâu. Trung Quốc đệ tam cường quốc kinh tế thế giới mà vẫn đầy những tồn tại của xa xưa. Cứ đi một vòng Thượng Hải, Thẩm Quyến thì sẽ thấy đầy xe ba gác nhỏ, phơi áo quần treo đầy. Ta hãy qui định rõ ràng trước, còn tác hại ta mới cấm, kẻo tội cho dân lắm!

Báo Công giáo và Dân tộc số 1640