Thứ Ba, 18 tháng 12, 2007

Con có mến thầy không? Hãy làm kinh tế tốt.

Đói và nghèo, cũng như xóa đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề đặt riêng cho thành phố ta, cũng không phải là của riêng nước ta, mà của toàn thế giới, ngay ở tại Nữu Ước. Mức độ đói và nghèo về mặt khách quan, có khác nhau giữa người đói và nghèo ở Phi Châu và ở phương Tây, nhưng về mặt chủ quan, đói và nghèo ở bất cứ đâu, đều được cảm nhận bởi một sự thống khổ như nhau. Giữa người đói và nghèo ở Châu Á và người nghèo ở châu Au, sự tương phản có thể gần như toàn diện giữa người hầu như “trần truồng” và người “hình như khá giả” có đầy đủ trên mình những thứ cần thiết cho người lành lặn: áo quần, giày dép v.v… Nhưng người đói nghèo ở A châu, như ta thường gặp ở nước ta, thành phố ta, dù sao cũng còn có nụ cười trên môi, còn có niềm hy vọng vào quy luật sống: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”, vào sự bố thí giúp đỡ của người qua đường, của những người từ bé đã được nung đúc truyền thống nhân ái của dân tộc như trong lời Gia huấn ca của Nguyễn Trãi:
“Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà,
Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng : “Đây cần kiệm, gọi là làm duyên”.
Nay ta ở chốn bình yên,
Còn người nghèo khó, chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng ngày đói, tháng đông,
Thương người bớt miệng bớt lòng mà cho.
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng”.
Khác với sự tuyệt vọng của những “người nghèo mới” vào ngày mai, vào sự tương thân tương ái của một xã hội thành đồng vách sắt, tổ chức siêu hợp lý, siêu hiệu năng, không có chỗ đứng, đúng hơn, dành chỗ đứng ngoài lề, cho người thất thế.
Nhưng biết sao? Mỗi thời đại là một đoạn đường mà nhân loại phải trải qua, dù cho phải đau đớn rời bỏ bóng dâm mát bên bờ ao lặng lẽ nơi làng quê, để đi tới những cao ốc chọc trời, trong những khu phố không có cây cối, thậm chí, ánh sáng mặt trời (qua giờ đúng ngọ). Ngay cả người da đỏ ở châu Mỹ cũng phải cố gắng đi tới như vậy, để khỏi bị âm thầm tiêu diệt bởi luật đào thải tự nhiên. Mỗi thời đại có cái khắc nghiệt riêng của nó. Nhưng khắc nghiệt đó là cái giá phải trả để hưởng cái hương vị ngọt bùi của tiến bộ vật chất, theo cái lôgic của định mệnh đã dành sẵn cho con người là người chủ thụ hưởng vạn vật trên trái đất, trong vũ trụ.
*
* *
Khám phá, tìm hiểu, nắm bắt lãnh địa của mình, con người phải khai thác để hưởng dụng, hưởng dụng chung, hiện thực hoá lời hứa ngày xưa của Thiên Chúa với giòng giống Abraham, đại biểu của nhân loại ngày nay. Đó là vai trò của khoa học kinh tế và kỹ thuật kinh doanh, cũng như của những nhà khoa học kinh tế, những nhà lãnh đạo kinh tế chính trị và những thủ lĩnh kinh doanh, mà thời đại đã cơ hồ biến thành một loại mục tử chăn chiên mới. Không đối kháng và đi cùng hướng, cùng bước, đồng thời có tác động qua lại, với các mục tử chăn chiên “thủ kho” của sự thánh trong trần gian.
Hơn bao giờ hết, chữ “kinh tế” bao hàm ý nghĩa gốc “kinh bang tế thế” và “nhà kinh tế” có vai trò “thế thiên hành đạo” rõ nét như ngày nay. Kinh tế ngày nay có chiều kích vừa cộng đồng vừa quốc gia, quốc tế. Kinh tế bước từ dạng giản đơn trao đổi trong các phiên chợ quê thành những bát quái trận đồ, như trận Cửu Ly Sơn đánh tan Hạng – Võ, như trận Xích Bích đánh bại Tào Tháo, với trận địa bao la, quân số muôn trùng, chiến lược siêu vượt, chiến thuật bí hiểm, bố trí như thần, ăn khớp như máy, hiệu quả y như dự đoán ban đầu v.v… Muốn quan niệm, tổ chức, điều khiển những trận vĩ đại như vậy phải có những đầu óc xuất chúng của Hàn Tín, Trương Lương, của Khổng Minh trói gà không chặt. Thiếu những đầu óc như vậy, tướng sĩ càng đông, càng mau chết như trường hợp bá vạn hùng binh của Hạng Võ, Tào Tháo.
Làm kinh tế ngày nay đòi hỏi khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật và trên hết lòng yêu thương chan chứa: yêu tổ quốc, yêu xí nghiệp, yêu thành công, yêu những con người lao động trong tay mình, yêu thế hệ kế thừa mình, yêu đồng bào hưởng nhờ thành quả của mình, yêu những người gần xa tạo điều kiện, giúp đỡ mình thành công, và, tại sao không? yêu khối óc, quả tim, lá gan của mình?

*
* *

Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2007

Hệ thống pháp luật như xương sống, có mạnh và thẳng, con người và quốc gia mới đứng ngay

Lâm Võ Hoàng

Pháp luật (quốc nội hay quốc tế) là sức mạnh, là xương sống nâng đỡ toàn thân của mọi tổ chức xã hội có kỷ cương. Quân đội, công an được trang bị mạnh không phải để hoạt động theo ý mình, mà có chức năng dùng sức mạnh được trang bị đó để bảo vệ sự bền vững và tính chấp hành của luật pháp. Cơ quan pháp luật có nhiệm vụ thi hành luật pháp ở hai mặt : giải quyết mọi nhu cầu thể hiện và tranh chấp của công dân và mọi nhu cầu chế tài các vi phạm luật pháp của công dân và tổ chức.

Trên hết, cơ quan tối cao thay mặt nhân dân và chế độ cầm quyền, có nhiệm vụ làm ra luật pháp bao trùm mọi mặt hoạt động, ý hướng của chế độ và nhân dân. Vì trong cụ thể và thực tiễn, sự thể muôn hình vạn trạng, cho nên tinh thần và phương pháp xây dựng luật pháp là không thể qui định từng vụ việc, mà chỉ có thể đề ra những nguyên tắc nêu lên ý nghĩa thâm sâu và những điều kiện cấu thành sự việc. Tính nguyên tắc của qui định pháp luật không có, hoặc không rõ ràng, thì chỉ dẫn tới những diễn giải, suy luận làm tổn thương uy tín của luật pháp và làm lợi cho những kẻ lợi khẩu, nói ngang.

Gần đây trên báo chí có hai vụ tranh chấp, một còn trong giai đoạn xử lý nội bộ, và một đã đưa ra hai tòa, đều gây tức ấm ách, do làm ngang, phán ngang làm thương tổn không cần thiết đến uy danh của một doanh nghiệp hạng to nhất nước và nhất là của một cơ quan tài phán cấp trên.

+ Việc đầu tiên được chuyên gia kinh tế, luật sư Nguyễn Ngọc Bích trình bày trên tuần báo Kinh tế Saigon ngày 27.9.2007, tựa đề “Cách ra quyết định trong tập đoàn”, mà người viết xin dựa vào sự kiện được nêu để góp ý như sau:

Đó là việc Pétro Việt Nam PVN, công ty mẹ (60% cổ phần) của Đạm Phú Mỹ (ĐPM) có cổ đông khác là Ngân hàng đầu tư và phát triển (nắm 5%), Ngân hàng Á châu (ACB) nắm 1% và nhiều cổ đông khác nắm phần còn lại. Trong số 60% cổ phần đó của PVN có giá trị của miếng đất 28ha, nay đã trở thành sở hữu sử dụng của ĐPM, đúng hơn của tập thể cổ đông ĐPM, ngoài ba cổ đông nêu trên còn có các cổ đông nắm số cổ phần còn lại.

Điều gây bức xúc là ông chủ tịch PVN có công văn và với tư cách công ty mẹ chỉ đạo “những đại diện của mình trong Hội đồng Quản trị ĐPM tiến hành các bước theo qui định để chuyển giao đất này cho một đơn vị khác trong tập đoàn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất”. Việc chỉ đạo này, theo người viết, là đúng và cần thiết. Vì “chỉ đạo” không có giá trị pháp lý nào cả, nhưng lại có hiệu quả “bảo vệ” những người đại diện tuân hành ý muốn của “chủ”. Điều đáng nói là trong “các bước theo qui định”, ông Chủ tịch chăng lập lờ không nêu rõ sự “chuyển giao đất này” là hữu thường (có trả tiền nhượng lại quyền sử dụng đất) hay vô thường (không tính tiền) ? Vì nếu “hữu thường” thì bình thường, vì trong cân đối tài sản “mất đất” được bù bằng “được tiền”. Còn nếu “vô thường” thì sẽ có rắc rối, dám dẫn tới “hình sự” là làm “tẩu tán tài sản” vô cớ, với sự kiện tụng không thể tránh của các cổ đông thiểu số khác (ngoài hai tai to mặt lớn câm) của ĐPM bị thiệt hại vì sự “tẩu tán tài sản” kia làm giảm giá trị nội tại của cổ phần họ.

May thay, công ty con được chỉ đạo “nhận” lại dứt khoát không chịu nhận “của rơi từ trên trời”, nên đã không có kết thúc bi thảm mà còn có dịp cống hiến cho nền doanh nghiệp thị trường còn non nớt của ta một bài học đáng giá, nhớ đời là “mẹ con không hại nhau, nhưng của con mẹ không được rớ tới, nếu con chưa ưng thuận”.

+ Việc thứ hai được nêu trong bài “Ai hoàn trả công sức cho tôi ?” của Nguyễn Tấn trong cùng số báo “Kinh tế Saigon” nói trên, có nội dung ai oán hơn, xuất phát từ một phán quyết non nớt (vì không thể giải thích) của một Tòa cấp trên làm thiệt hại trắng tay vô cớ cho một bên gọi là bên B và làm giàu vô cớ cho bên kia gọi là bên A có thể do ai xúi dại, phủi hết mọi ơn nghĩa, kiện B ra tòa. Câu chuyện theo bài báo như sau:

“Cuối năm 2004, công ty A có trụ sở tại Tp. HCM, thông qua mạng Internet, quen được một mối ở Hàn Quốc cung cấp giàn giáo đã qua sử dụng với giá chào rất rẻ.

Tưởng ngon ăn, công ty này liền chồng tiền đặt hàng ngay cho phía nước ngoài là 25.000 USD (400 triệu VNĐ). Thế nhưng, hàng được về vài mẻ thì tắc tị và nhà cung cấp cứ lờ đi. Để đòi lại tiền, công ty A nhờ công ty B là một doanh nghiệp do một Việt kiều làm chủ, có chức năng cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư, kinh doanh và đại diện sở hữu công nghiệp, tư vấn giúp mình trong việc giải quyết tranh chấp.

Tháng 8.2005, hợp đồng dịch vụ tư vấn được ký kết, trong đó A ủy quyền cho B đại diện bảo vệ quyền lợi cho mình, để buộc nhà cung cấp nước ngoài thực hiện hợp đồng và bồi thường các khoản thiệt hại. Hợp đồng tư vấn chỉ kết thúc và bên A chỉ thanh toán tiền tư vấn cho bên B, khi việc giải quyết tranh chấp đạt được bằng một quyết định có hiệu lực thi hành của tòa án hoặc của cơ quan có thẩm quyền buộc nhà cung cấp nước ngoài phải thực hiện những nghĩa vụ trên. Tổng giá trị hợp đồng bên A phải trả cho bên B là 12.500 USD. Căn cứ hợp đồng, bên B đã thực hiện các công việc như tư vấn giúp A cách giải quyết tranh chấp, tiến hành các thủ tục khởi kiện. Kết quả là đến đầu năm 2006, Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam đã ra phán quyết buộc nhà cung cấp nước ngoài phải hoàn trả cho công ty A 25.000USD và toàn bộ phí trọng tài hơn 24 triệu đồng.

Hợp đồng tư vấn coi như đã hoàn thành. Thế nhưng, sau đó bên A bất ngờ đâm đơn kiện B ra tòa. Lý do được đưa ra là vì B chỉ có chức năng dịch vụ tư vấn nói chung mà không có chức năng dịch vụ tư vấn pháp luật. Vì vậy hợp đồng tư vấn giữa A và B là vô hiệu và B phải hoàn trả cho A số tiền dịch vụ tư vấn 9.500 USD đã thanh toán trước cho bên B… Tại phiên tòa xử sơ thẩm ngày 16.7.2007, HĐXX TAND quận 11 khẳng định : hợp đồng giữa A và B không phải là một hợp đồng dịch vụ pháp lý, mà là một hợp đồng dịch vụ tư vấn. Hợp đồng này có hiệu lực pháp luật, phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với các bên ký kết hợp đồng và phù hợp theo các qui định của Luật thương mại. Căn cứ theo thỏa thuận tại hợp đồng, bên B đã hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với bên A, cụ thể là đã tư vấn giúp cho bên A giải quyết được tranh chấp bằng một phán quyết trọng tài có hiệu lực thi hành. Do đó tòa không chỉ bác yêu cầu đòi lại tiền của bên A, mà còn buộc A thanh toán hết số tiền 3.000 USD còn nợ chưa thanh toán cho B.

Án sơ thẩm bị kháng cáo. Ngày 24.9.2007, tại phiên phúc thẩm HĐXX Tòa Kinh tế TAND Tp. HCM đã cải sửa bản án với phán quyết buộc B phải hoàn trả toàn bộ 9.500 USD tiền tư vấn cho bên A, không chấp nhận yêu cầu của bên B buộc A thanh toán số tiền còn nợ chưa thanh toán 3000 USD cho B. HĐXX lập luận rằng hợp đồng giữa A và B là hợp đồng kinh tế dưới dạng dịch vụ pháp lý mà B không có chức năng trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nên hợp đồng nói trên bị vô hiệu toàn bộ”.

Rõ ràng, ghi chép lại dài dòng như trên là để thấy rõ phán quyết của TAND quận 11 nghiêm túc vững chắc trong lập luận cũng như trong kết luận, tức là đã phân biệt rạch ròi, tuy không cần giải thích rườm rà giữa hợp đồng dịch vụ pháp lýhợp đồng dịch vụ tư vấn.

Dịch vụ pháp lý (tức là đơn thuần pháp lý trước các cơ quan tài phán hoặc có nội dung pháp lý là chính) như luật sư trước tòa hoặc trước các cơ quan hành chính, đều do chính bản thân luật sư thực hiện, thay mặt cho thân chủ. Như vậy sẽ rất thuyết phục nếu cho bên B không có chức năng thực hiện dịch vụ pháp lý.

Còn dịch vụ tư vấn có thể bao gồm nhiều loại hình dịch vụ, không loại trừ dịch vụ pháp lý dưới dạng tư vấn (chỉ cách khởi kiện, làm đơn giùm để thân chủ ký tên. Mặt khác, với tư cách đại diện ủy quyền của thân chủ, nhà tư vấn có đủ tư cách tiếp xúc, thương thảo với mọi đối tác, kể cả hành chánh, trừ đối tác tài phán như nói trên.

Trong lĩnh vực này, thành công của bên B đem lại cho bên A là do tài năng chuyên nghiệp của tư vấn thông hiểu luật lệ, cách làm của Việt Nam lẫn quốc tế. Chỉ bằng cung cách quốc tế, nắm được luật pháp của Việt Nam cũng như của Hàn Quốc và thông tục quốc tế mà bên B mới có thể, “tiên lễ hậu binh”, siết chặt vòng vây pháp lý chung quanh đối tác Hàn Quốc, dẫn đến phán quyết trọng tài quốc tế có hiệu lực thi hành trên thế giới và sẽ khiến cho đối tác Hàn Quốc phải “lương thiện” trở lại. Cái khôn khéo của bên B là vận dụng sức mạnh của Trung tâm trọng tài quốc tế tại Việt Nam, chớ không phải của tòa án Việt Nam. Như vậy bên B xứng đáng hưởng tiền tư vấn 12.500 USD.

So bản án phúc thẩm với bản án sơ thẩm, ta không khỏi buồn thấy cấp trên, do không giải thích được cơ sở pháp lý của phán quyết khiên cưỡng của mình, nêu ra một phán quyết kỳ cục là một đằng làm trắng tay kẻ có công trạng mà tòa không thể phủ định, mặt khác, làm giàu vô cớ cho kẻ vong ân bội nghĩa, trơ trẽn nuốt lời hứa, đã không mất Huyền Trân mà còn được hai châu Ô Lý. Hơn thế nữa, tòa đã làm cái mà thông tục pháp lý thế giới đều kiêng kỵ và luôn trấn áp, đó là tội phạm “làm giàu không căn cứ” (enrichissement sans cause). Vì vậy đã đến lúc ta coi lại xương sống của ta, tức là hệ thống pháp luật, pháp lý của ta, có thoát vị bẹn, hay thoát vị đĩa đệm không, để sớm sửa chữa.

Công Giáo Và Dân Tộc số 1629

Ai ơi, dân ta còn lắm kẻ nghèo!

Lâm Võ Hoàng

Sau hơn hai mươi năm đổi mới, nước ta, nhờ đầu tư nước ngoài, đã phát triển khả quan, nhưng chậm chạp, và nhứt là chưa đúng bài bản đồng bộ như những nước trước đây so với Việt Nam, tuy còn chiến tranh, nhưng vẫn chưa thể so kè. Nay thì họ với ta đã khác xa lắm lắm, như Hàn Quốc chẳng hạn, ở những năm đầu 1960.

Chẳng có gì thần kỳ cả. Chẳng qua họ thấy được con đường gian khổ phải trải qua, và cả nước phải cắn răng, nuốt lệ, thực hiện cho kỳ được “bốn mục tiêu quốc gia” (Hàn Quốc) mà cứ hỏi bất cứ trẻ em nào đều trả bài ron rót. Nhờ đó họ sớm trở thành cường quốc kinh tế hồi nào không hay. Trong khi đó Việt Nam, sau chiến thắng còn lây quây trong đủ thứ vấn đề gai góc, sau đó phải mất nhiều thời gian để tháo gỡ lần hồi từng mối, mỗi khi phát hiện, mà vẫn chưa biết chừng nào mới có một “đồng bộ”, để có đủ khí thế tiến lên phát triển chắc chắn bền vững?

Nói tới đây, chắc không khỏi bị quở chuyên nói tốt cho người. Nhưng lấy công tâm mà nhớ lại, trên tivi thường chiếu cảnh Palestin, Irắc tang tóc đau thương, xe bom, trọng pháo làm người chết, nhà cháy, nhưng đường sá của họ phẳng lì sạch bóng, các vạch tuyến còn mới tinh, đèn đường không thấy đứt một bóng. Còn ta không bom, không pháo, sao đường sá đầy lỗ hang, rác rưởi, xà bần quá xá !

Trong tình hình phát triển nước ta còn nhiều tự phát, ai giỏi chạy, giỏi làm toán chia có nhiều “cô bác bạn bè” thì phất lên, nhiều khi đột ngột không ai biết nguồn gốc “núi tiền” của họ ở đâu ra. Mặt khác, cách thu thuế của ta hơn ba mươi năm qua, vẫn chưa nên hình nên tướng, chỉ biết dùng hăm dọa làm khó là chính, trình độ không khác thời thánh Mátthêu còn tại vị, nên chưa thể hiện vai trò kinh tế – tài chánh điều hòa thu nhập quốc gia, nắm vững thu nhập, chi tiêu từng tổ chức, cá nhân. Từ đó, tạo một tầng lớp người trung lưu không đóng thuế, hoặc rất ít, nhưng lại tiêu xài như nước (bổ dưỡng, chăm sóc, thời trang, nội thất, giải trí, ăn uống, bồ bịch, bôi trơn, lo lót, tiêu dùng từ sang đến cực sang…), phần đông gồm những người có chức quyền, hoặc hành nghề tự do. Họ và con cái lớn lên của họ, đều có nhà cửa đàng hoàng, tự nuôi thân, và vợ con rất đầy đủ, no ấm, toàn ăn bổ dưỡng, mặc sang trọng còn hơn vợ con Mỹ hoặc chạy trường cho con mấy ngàn đô cũng không tiếc.

Chính cách sống thường ngày của họ cách xa với những người tay làm hàm nhai, tay lấm chân bùn, khiến cho nhà nước và nhân viên nhà nước tưởng ai cũng như mình, cần gì có nấy, thậm chí không cần cũng có (người dâng), cho nên từ tháp ngà dễ dàng “đẻ” ra cho toàn dân nhiều chánh sách, quy định xa rời thực tế, khiến cho ai nấy, ngoài tầng lớp của họ, phải ứ hự, kêu trời, như trong ba trường hợp trước mắt như sau là : học phí, đồng phục và mũ bảo hiểm.

Học phí

Năm 1938, tôi vào học lớp đồng ấu (lớp 1) trường làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá, cho tới lớp triết, cuối cấp trung học, trường Chasseloup Laubat (của Pháp) mà không tốn một đồng nào của cha mẹ. Đã vậy từ suốt học trình như trên, mỗi năm trường đều cho mượn sách giáo khoa đầy đủ, tới bãi trường mới trả lại. Tôi còn nhớ anh Nguyễn Hữu Khánh cũng học Chasseloup, sau làm báo Tuổi Trẻ, trước khi vô khu với anh Nguyễn Điền, đã đĩnh đạc bưng chồng sách đem lên phòng giám thị xin nghỉ học và trả sách. Tây biết, nhưng không muốn lôi thôi, nên không hỏi gì hết. Sau lên đại học Sài Gòn, còn do Pháp quản lý, tiền ghi danh lớp tiến sĩ là 300 đồng/ học kỳ, trong khi tôi đi làm gia sư được trả 2.000 đồng/tháng.

Rồi bây giờ, mức học phí tuy đã khá nặng, nhưng chịu riết bấy lâu nay, da cổ đã chai, nên còn chịu đựng được, nay bỗng nhiên nhà nước đòi tăng học phí rất cao. Trên báo có một vài phản ứng, nhưng hầu như chìm dần. Phải chăng vì không còn ai đấu tranh chống tăng học phí, hay vì phản ứng này thiếu chánh nghĩa?

May là nhà nước, vì lợi ích của mở cửa và hội nhập, vẫn còn khả năng lắng nghe tiếng thở than âm thầm của người dân, cho nên đích thân Thủ tướng Chính phủ đã đề ra chính sách không để người trẻ nào bỏ lớp thất học, chỉ vì thiếu tiền đóng trước hai tháng học phí, và lập quỹ cho học sinh nghèo vay trả học phí.

Đây là quan tâm và từ tâm đối với những tài năng vì mắc kẹt cái nghèo mà đâm ra thất thế, nhưng tính khả thi của đề án lập quỹ cho vay đóng học phí xem ra ít sáng sủa vì thông thường “có thóc mới cho mượn gạo”. Ở đây đã không có khả năng đóng học phí trong hiện tại và tương lai thì lấy đâu mà trả nợ vay ? Giải pháp tốt nhất là “nuôi” họ học thành tài, rồi bắt họ làm việc cho nhà nước, rồi trừ tiền vay lần hồi vào lương. Như vậy hai bên đều có lợi : họ được bảo đảm có việc làm và nhà nước nắm được “quỹ” nhân tài, tha hồ đưa họ đi phục vụ mấy chỗ hóc bà tó để đóng góp phát triển nó. Thậm chí, khi họ học giỏi thành tài, thiếu gì nhà giàu có con gái muốn gả sẽ sẵn sàng bỏ tiền ra “chuộc” họ, hoặc doanh nghiệp, có tầm nhìn cũng bỏ tiền ra như vậy, thế là nhà nước tha hồ tính tiền lời như ngân hàng, khiến cho “quỹ” sẽ nở nồi.

Bàn như trên là chưa đi sâu vào thực chất vấn đề. Quả thật vậy, cho vay như thế là nhà nước cho vay tay mặt, rồi tay trái lấy lại (thu học phí) mà lại được tiếng thơm “của người phúc ta”. Tức là họ đi học bằng tiền (vay và trả lại) của họ, chớ có phải bằng tiền nhà nước, như học bổng đâu! Ơn nghĩa, nếu có, là do chút “miếng khi đói bằng gói khi no” thôi, muốn tính hay “xù” đều được cả, bởi Hàn Tín dù chỉ ăn bát cơm nguội lúc hàn vi, đã đến dâng một ngàn lạng vàng cho Phiếu mẫu vài năm sau đó. Khi trở thành nguyên soái được “đăng đàn bái tưởng” của Lưu Bang, chỉ nghiêng mình chút xíu trước tên mặt tái, xấu tướng, mà dựng nên cơ đồ nhà Hán lẫy lừng nhứt của Trung Quốc. Rõ ràng làm gì đôi bên cũng đều có lợi.

Thế thì thực chất vấn đề là gì ? Nhà nước tạo điều kiện cho dân học hành tới nơi tới chốn, trước nhứt vì lợi ích của chính mình, không thể sống mãi để cai trị dân nước mà mình hoặc tổ tiên mình phải tốn hao mọi mặt, với số lượng kinh hồn, mới chiếm được.

Ngược lại người dân muốn tồn tại, phải hy sinh đóng góp chi phí nuôi bộ máy nhà nước, ở thôn quê thì gồm 30 khoản, học sinh thì 13 khoản, dù cỡ lớp 6 cũng lên tới bạc triệu, chưa kể lớp 10 “vừa tựu trường đã đóng 200.000đ học hè” (Tuổi Trẻ 12.9).

Còn nhà nước muốn tồn tại phải có công dân của nước mình là công dân có học hành, tri thức đàng hoàng đầy đủ để tham gia bộ máy nhà nước. Chứ không lẽ nhà nước sẽ phải mướn người nước ngoài tham gia bộ máy nhà nước, để cai trị dân mình như các đội banh thuê các “ngoại binh” ?

Như vậy lẽ ra nhà nước ta phải lấy tiền thuế nuôi mầm non, gầy dựng lớp kế thừa có học của mình và cho mình. Bởi việc học hành của họ đâu chỉ lợi ích cho riêng bản thân họ ? Ta đã hiểu sao về tư tưởng “trồng người” của Bác Hồ?

Đồng phục

Đồng phục học sinh là một chủ trương lớn của quốc gia, cho nên phải để Bộ Giáo dục quy định chung cho cả nước, cho mỗi cấp. Mục đích yêu cầu của đồng phục là sạch sẽ, giản dị trong kiểu cách, thể hiện nét văn hóa quốc gia. Đồng phục minh thị một bộ phận của xã hội và đòi hỏi người mặc nêu cao ý thức trách nhiệm gây cảm tình, tạo sự tôn trọng của người khác.

Đối với nước nghèo, đồng phục (đủ để thay đổi) là một tảng đá không nhỏ bỏ thêm vào gánh nặng chi phí của gia đình. Do đó, vẫn có thể thay bằng một huy hiệu nào đó là đủ. Đồng phục phải tiện gọn, thanh nhã như thế nào đó, để có thể dùng trong nhiều dịp khác : ra đường, lại nhà người khác, đi ăn giỗ, đám cưới thì càng tăng thêm nét trẻ, có học, cho đám đông. Đồng phục kỵ nhất là lòe loẹt, gây phản cảm.

Thế nhưng mới đây một số trường bày đặt ra kiểu mới đồng phục cho mình, với một số chi tiết rườm rà, để không giống ai và có thông báo trước mỗi năm mỗi đổi chi tiết màu sắc để chỉ có đồng phục của trường kinh doanh mới hợp lệ. Thật là tệ !

Từ lâu lắm cho tới gần đây hình như đồng phục học sinh nam là quần dài xanh đậm, áo sơ mi trắng, có thêu tên họ và tên trường và nữ sinh là áo dài trắng, tất cả trông rất phù hợp. Còn sinh viên và học sinh cấp 3 hình như được mặc tự do, miễn là không gai mắt. Tôi thấy đồng phục như bấy lâu nay, đã quen mắt mọi người, cho nên có thể coi là truyền thống, như sinh viên, học sinh Nhật mặc đồng phục kiểu áo đại cán của mình có lẽ từ thời Minh Trị duy tân. Do vậy, nếu Bộ quy định cho cả nước đồng phục đã quen mắt thì nên cấm các trường không được bày vẽ để kinh doanh đồng phục cho học sinh mình.

Mũ bảo hiểm (MBH)

Hổm rày báo chí đã nói nhiều rồi và sẽ còn nói tiếp nữa, vì đây là một vấn đề quan trọng cho cả nước, đặc biệt đối với dân nghèo cho nên tôi chỉ đóng góp theo suy nghĩ độc lập của mình. Đó là :

- Khi nói MBH an toàn hơn mũ bảo hộ lao động (MBHLĐ), như một lãnh đạo phụ trách an toàn giao thông tuyên bố, mà không có trình bày cơ sở khoa học nào hết, thì sẽ thiếu tính chất thuyết phục. Vì MBHLĐ là chất nhựa cứng khá dầy, bên trong có một hệ thống mũ ôm trọn cái đầu, từ trán ra sau ót, bằng dây nhựa dẻo to bản, có khoảng cách gần 2 phân với mũ nhựa cứng, để cho mát đầu và giữ không cho đầu tiếp xúc trực tiếp với mũ cứng, như một cái giảm chấn. Duy chỉ có bộ dây hình chữ Y, giữ chặt mũ dính với cằm là còn thô sơ, cho nên các thợ điện, thợ hồ ít khi quàng xuống cằm làm cho mũ dễ rơi khỏi đầu. Như vậy dù đội MBH mà không thắt dây quai cằm, thì rủi có gì, cả hai mũ đều rơi ra như nhau; nếu thay bộ dây cằm, thì với MBHLĐ té xuống đất, từ độ cao ngồi trên yên xe, có lẽ chưa đến nỗi nào, ít ra cũng hiệu quả hơn MBH “bánh tráng” là hàng giả đang bán nhan nhản trên thị trường.

Tóm lại, chưa có thử nghiệm khoa học – kỹ thuật, xin chớ vội mê tín, rồi võ đoán cho MBH an toàn hơn MBHLĐ. Khiến cho không mắc mớ gì mà bắt đồng bào giàu, nghèo của mình xúm lại mua MBH mà theo báo Tuổi Trẻ đã đẫn có đến 75% không đạt yêu cầu, tức là dỏm, là bánh tráng nướng không hơn không kém.

Vì vậy, người viết xin đề nghị cơ quan, cán bộ đặc trách tạo điều kiện cho dân nghèo thôn quê, thành thị chấp hành luật pháp bằng cách cho đội MBHLĐ rẻ tiền hơn, thực ra là một loại MBH tránh tai nạn ở trên cao, một thời gian để thử nghiệm và rút bài học cho mọi người, có trách nhiệm, hay nạn nhân, cho tới khi tìm được giải pháp tối ưu, có sức thuyết phục mọi người. Vì ai ơi, dân ta còn lắm kẻ nghèo, rất muốn tuân hành luật pháp, nhưng đỡ đồng nào hay đồng đó.

(Báo Công Giáo Và Dân Tộc số 1624)